Chủ Nhật, tháng 8 06, 2006

Hà Nội - những ký ức

Hà Nội - những con đường

Có một con đường không phai mờ trong ký ức tôi. Con đường dẫn đến ngôi trường thủa thơ ấu. Những năm tháng ấy, gia đình tôi còn trú ngụ ở GV, mỗi trưa, theo chúng bạn đến trường trên con đường ấy. Bây giờ người ta đặt tên thành phố thành phường. Nhưng ngày ấy, nó chỉ là con đường nhỏ không tên trong ký ức học trò, men theo hồ GV, vòng qua phía sau trường HN-A, nơi ấy có một con mương nhỏ và hoa bèo tím bập bềnh, có những luỹ tre xanh mướt mải. Tôi còn nhớ hồ GV khi ấy còn hoang sơ lắm. Ven hồ chưa có cây cối gì hết (mãi đến năm tôi học lớp 12 người ta mới cho trồng cây ven hồ, ấy vậy mà bây giờ đã xum xuê biết mấy). Lâu lâu lại có một vụ chết đuối hay tự tử gì đó, khi xác người xấu số được vớt lên, lũ trẻ con chúng tôi tò mò chen chân đến xem. Người ta bảo hồ GV độc lắm, đi sát ven hồ có cảm giác bị hút xuống tận đáy nước. Tôi chẳng biết có thật không, nhưng cũng chẳng bao giờ dám đi sát ven hồ cả. Tôi ngoan, nghe lời mẹ. Mẹ bảo giờ đây mẹ chỉ có hai chị em tôi, hai cục vàng của mẹ, có chuyện gì mẹ không biết phải sống ra sao nữa. Tôi sợ lắm, mặc dù hồ GV trong con mắt của đứa trẻ là tôi bấy giờ nom thật hiền lành, chẳng có chút dữ dằn gì. Tôi nhớ người dân khu GV còn thường ra đấy giặt chiếu. Ngày ấy nước máy rất khan hiếm, không như bây giờ. Mùa hè năm ấy, có hai sự kiện làm lũ trẻ con bàng hoàng. Một là cái chết của thằng cận khu B2. Và một sự kiện nữa là người ta vớt được xác một đứa trẻ sơ sinh bọc trong bao tải dứa. Thằng cận là em một thằng học cùng trường cấp II với tôi, nhưng khác lớp. Chúng tôi gọi nó là thằng Nguyễn A, để phân biệt với thằng Trần A, cũng ở B2. Hôm đấy thằng cận đi chơi với một thằng nữa ở khu A6, chẳng hiểu lần mò thế nào mà lộn cổ xuống hồ. Thằng ở A6 sợ quá chạy tọt về nhà không dám hé răng với ai. Bảy ngày sau, chính anh nó đi đánh cá thì vớt được xác thằng cận trong lưới. Sự kiện ấy làm cả khu GV hoảng hồn. Lũ trẻ con chúng tôi bắt đầu bị cấm tiệt không được mò tới ven hồ nữa. Sau đó ít lâu, có lần đi học về ngang qua đó, chúng tôi thấy một đám người lúi húi cuốc đất ở một góc vườn của khách sạn 11 tầng (khách sạn GV, nhưng dân GV hồi đó quen gọi là KS 11 tầng). Hoá ra người ta vừa vớt được một bé sơ sinh bị quấn trong bao tải dứa và chuẩn bị đem chôn bé. Thấy người ta đồn chính người mẹ trẻ đã vứt hoang thai xuống hồ. Hai sự kiện đó ám ảnh tôi mãi. Bây giờ mỗi lần ngang qua, tôi lại hình dung thấy gương mặt nhợt nhạt úng nước của thằng cận và nấm mộ nhỏ bé xơ xài nơi góc vườn của KS 11 tầng. Mặc dù bây giờ cảnh xưa đã đổi khác lắm rồi. KS GV giờ đây đã mở rộng thêm ra, một toà nhà mới mọc lên nơi xưa kia là nấm mộ sơ sinh vô thừa nhận. Không hiểu bé còn nằm đó hay người ta đã rời mộ đi. Mười bảy năm rồi!

Trên con đường mà bây giờ người ta đặt tên là phố NC hồi ấy còn có một thứ nữa thu hút đám trẻ con chúng tôi. Đó là cửa hàng kem mậu dịch mà chúng tôi quen gọi là Kem 1 đồng, vì giá của nó chỉ có 1 đồng/ 1 chiếc. Kem màu hồng, nhạt toẹt, nhưng đối với lũ trẻ con chúng tôi hồi ấy thì trông nó ngon ngọt mát lành vô cùng. Hồi ấy nhà tôi nghèo lắm. Mẹ tôi lại nghiêm, chẳng bao giờ cho phép chị em tôi được giữ tiền hay tiêu tiền nên chẳng bao giờ tôi được ăn kem một đồng với lũ bạn cả. Đi học về, tôi đành phải đứng đợi chúng nó chen lấn mua kem. Và trong lúc đó tôi lặng lẽ theo đuổi những ước mơ của riêng mình. Có lẽ tôi bắt đầu biết mơ mộng từ hồi đấy chăng. Tôi còn nhớ hay ngắm nhìn các anh chị trường HN-A phóng xe từ cổng trường đi ra. Trông ai cũng sáng sủa, đẹp đẽ, giàu có, sung sướng. Tôi đã ước mơ một ngày nào đó cũng được vào trường A, cũng được tự hào là học sinh trường A như họ. Và ngày ấy đã đến, chẳng phụ lòng mẹ mong đợi và xách cơm cho tôi những ngày thi. Ngày khai giảng, tôi xúng xính trong bộ quần áo mới (được mẹ sửa lại từ quần áo của chị họ tôi), kiêu hãnh đi trong hàng ngũ những học sinh mới nhập trường. Cả khu GV hồi đấy, trong những đứa đồng khoá với tôi, chỉ có tôi đỗ vào trường A (*), niềm vinh dự lớn lao của mẹ. Thời gian trôi thật nhanh, vèo một cái, cô bé mười lăm tuổi năm xưa giờ đã tốt nghiệp ĐH, đi làm, rồi học nữa học mãi tận phương trời nào. Mỗi lần nhớ về những năm tháng ấu thơ, tôi không thể không nhớ đến con đường đã gắn bó với mình một thủa học trò đầy kỷ niệm.

(*) Chi tiết này không chính xác lắm. Về sau tôi biết/ nhớ ra có một số bạn khác ở GV cũng vào HN-A như tôi.

Phố cổ

Trước khi chuyển về GV, gia đình tôi ở chung với ông bà nội trên một con phố nhỏ gần nhà máy điện Yên Phụ. Trước đó nữa thì ở Hàng K., rồi chuyển sang Hàng R. Tôi chẳng nhớ được gì mấy về thời gian ở Hàng K. và Hàng R. vì hồi ấy tôi còn nhỏ lắm. Ký ức duy nhất của tôi về căn hộ chập hẹp trong ngõ nhỏ của phố Hàng R. lúc ấy là cái bể nước công cộng to như cái hầm trú ẩn trên Vườn hoa Hàng Đ. dưới sân chung của các hộ gia đình. Và những tiếng cãi nhau om tỏi mỗi ngày từ ngoài phố vọng vào. HN những năm ấy còn vất vả lắm, cái ăn cái ở còn chật chội bức bối lắm. Đại gia đình tôi hồi ấy tất cả tám người (gồm ông bà, bố mẹ, hai chị em tôi, và hai cô chưa đi lấy chồng) chen chúc trong căn hộ chật hẹp phía sau trên tầng hai. Phía trước là căn hộ của một bà rất đanh đá tên là L. Bà ấy suốt ngày cãi cọ với hai cô của tôi về việc lấy nước và dùng nhà vệ sinh chung. Người ta cứ bảo người HN thanh lịch. Tôi chẳng biết ở đâu thì người HN thanh lịch, nhưng nhất định không phải là dân nơi phố cổ.

Nếu chia tuổi thơ tôi ra làm hai giai đoạn thì giai đoạn thứ nhất phần lớn diễn ra ở con phố yên tĩnh phía sau nhà máy điện YP này. Phố tôi gần đê nên mỗi mùa mưa lụt kinh lắm. Nửa đêm lũ về, tràn cả vào nhà, mặc dù năm nào ông bà tôi cũng cho nâng cao bậc cửa để tránh ngập. Nước ùa vào, nồi chảo xoong chậu trong bếp bơi lềnh bềnh, va vào nhau lanh canh. Trong nhà, dép guốc trôi nổi lặn ngụp. Tôi và em trai bị bắt ngồi im trên giường để bố mẹ và ông bà tát nước. Trong khi ở ngoài đường bọn trẻ con hàng phố lội nước ào ào, nước sóng sánh tạt cả vào nhà tôi. Đấy là chưa kể đôi lúc một chiếc xe tải phóng qua, làm bao công lao của ông bà bố mẹ vứt đi hết. Mùa lũ năm nào phố tôi cũng ngập như thế, thành ra quen, chẳng ai thèm buồn bực nữa. Ngược lại, mỗi lần mưa lớn, cả phố lại xôn xao như có hội, nhà nọ với sang nhà kia buôn chuyện ầm ĩ. Lũ trẻ con háo hức cởi trần chạy ra tắm mưa, như chờ đợi một trò chơi lớn.

Sau này lớn lên, đọc thơ Xuân Quỳnh: "Bao dung là mái phố/ Sinh ở đây từ nhỏ/ Lớn lên tôi đi xa/Trời khi nắng khi mưa/Lại nhớ về mái phố/ Ơi cái màu ngói cổ/Màu áo mẹ gian lao/ Những nét thấp đường cao/ Tình yêu không bình lặng" tôi lại nhớ những mái nhà cao thấp bụi than giăng đầy. Mỗi Chủ nhật cuối tháng bố tôi lại leo lên cạo bụi một lần. Ở gần nhà máy điện nên bụi bặm lắm. Những cây bàng trên phố cũng phủ đầy bụi đen nhẻm. Bọn trẻ con nhà ông đạp xích lô cũng đen nhẻm. Nhà ông đạp xích lô có thằng T. đen học cùng lớp với tôi. Tôi nhớ đến nó vì nó hay đánh thằng V. để bênh tôi những lúc tôi bị thằng V. bắt bạt. Thằng V. hay giật tóc tôi vô cớ. Nó ghét tôi lắm, vì nó bảo tôi kiêu, cậy có bố đi Liên Xô. Có lần nó thụi tôi một quả vào ngực rất đau mà tôi không dám mách cô. Chỉ có thằng T. đen biết, nó đạp cho thằng V. một cái vào bụng làm thằng V. khóc thét lên. Từ đó thằng V. mới không dám đánh tôi nữa. Nhà tôi đã chuyển đi lâu lắm rồi, chỉ còn ông bà tôi ở lại đó. Từ ngày mở cửa dân phố cũng bán nhà cho các chủ kinh doanh rồi chuyển đi ở nơi khác nên con phố đã khác xưa nhiều lắm. Ngay cạnh nhà ông bà tôi người ta xây lên một KS mini kiêm quán bar, nhạc xập xình suốt đêm, khiến con phố mất hẳn vẻ yên tĩnh ngày xưa. Tôi chẳng bao giờ gặp lại cả T. đen lẫn V. nữa, chẳng hiểu chúng nó bây giờ ở đâu, làm gì.

Chợ Hà Nội

Một thú vui của tôi ngày ấy là bám chân mẹ, bà, hoặc cô út đi chợ. Có thể nói phố nhà tôi nằm ở một vị trí khá thuận tiện nên đi chợ nào cũng gần. Chợ Châu L. cách chục bước chân, nằm về phía hồ Trúc B. Chợ Hoè N. cũng thế, nhưng nằm theo hướng ngược lại, về phía vườn hoa Hàng Đ. Chợ Long B. thì xa hơn một chút, khoảng 10' đi xích lô, trên đê, cạnh bến xe Bến N. Chợ CL có hàng bánh cuốn ngon không tả được. Cách đó vài bước chân, ở góc Đặng D. và Quán T. có một quán bò khô, thỉnh thoảng tôi được mẹ mua cho. Thịt bò dai, ngọt, nộm chua cay rắc rau thơm và lạc, ăn một lần nhớ đời không quên . Tôi thường thích đi chợ CL hơn chợ HN vì ngại đụng thầy cô giáo của tôi. Phần lớn các thầy cô của trường N.C.T ngày đó đều sống ở những phố quanh quanh chợ HN. Những ngày giáp Tết, có người còn làm cả mứt bí mang ra chợ bán. Tôi có một bà trẻ ở ngay trên phố H.N nên mỗi lần đi chợ qua mẹ hoặc bà lại bảo tôi rẽ vào chào bà trẻ. Bà trẻ tôi làm bác sỹ. Sau này đi Angeria rồi chết bên ấy vì sốt xuất huyết. Ngày ấy, chuyện đó thường xảy ra đối với dân trí thức HN đi hợp tác lao động ở châu Phi nên không ai lấy làm ngạc nhiên hay cho là bi kịch gì to tát. Chợ H.N có hàng ốc luộc ngon lắm, nên dù sợ gặp thầy cô giáo, thỉnh thoảng tôi vẫn bám chân cô út đi chợ. Cô út là em út của bố tôi, làm mậu dịch viên và ăn quà rất sành. Hà Nội những năm bao cấp, nghề nghiệp của cô còn oai hơn cả tấm bằng Phó Tiến Sỹ của bố tôi. Cô là thịt, là gạo, là vải của cả nhà. Mặc dù gia đình tôi hồi ấy có phiếu thực phẩm ưu tiêu vì là gia đình liệt sỹ (chú tôi hy sinh năm 1972) nhưng chỉ đến ngày 27/7 hàng năm mới được ưu tiên. Sau này trở lại chợ H.N, tôi không còn thấy hàng ốc luộc ngày ấy nữa (cũng phải thôi, gần hai chục năm rồi còn gì). Chợ H.N bây giờ nổi tiếng về bún ốc đậu. Tôi cũng từng đi ăn ở đó một, hai lần. Quán bẩn, chật, nóng, bún nấu không ra kiểu Hà Nội Tràng An nhưng không hiểu sao ăn vẫn thấy ngon. Chợ LB thì bà và mẹ tôi chỉ đi vào những ngày giáp tết vì đó là chợ đầu mối, mua nhiều thì giá rất rẻ so với các chợ khác. Lá dong, măng, nứa, lạt đều trở từ trên ngược về theo đường sông Hồng. Gà, vịt, từ quê được mang ngay từ bến xe vào chợ, đảm bảo không bị rù.

Có một thứ chợ hấp dẫn tôi nhất hồi ấy là chợ hoa ngày Tết. Chợ hoa của người Hà Nội hồi ấy chỉ có ở phố Hàng L., Hàng M. chứ không mọi nơi mọi chốn như bây giờ. Một tuần trước Tết, chợ đã rục rịch họp. Ngày ấy dân Hà Nội chủ yếu là chơi đào chứ không mấy ai chơi quất như bây giờ. Chợ giăng từ Vườn hoa Hàng Đ. dọc theo Hàng L., Hàng M. Trông xa như một rừng đào rất đẹp. Ngày ấy hoa Tết chưa nhiều chủng loại như bây giờ, người ta chủ yếu chơi Violet, thược dược, và hoa cánh bướm. Bây giờ chợ Tết của người Hà Nội vẫn còn Violet và thược dược nhưng cánh bướm thì đã lặng lẽ biến mất. Đào Nhật Tân thì thu hẹp dần, chẳng biết đến năm tôi về nước có còn lại chút gì hay không.

Tàu điện

"Hà nội có tàu điện ..." (thơ mẫu giáo)

Hà Nội những năm tháng ấu thơ trong tôi còn có tàu điện. Tàu điện Hà Nội sơ sài nhưng tôi thích đi lắm. Ngồi trên tàu điện được ngắm phố phường chạy vun vút hai bên, thích và oai hơn ngồi sau xe đạp của mẹ nhiều. Tàu điện HN thường không có cửa, chắc để hành khách tiện nhảy lên nhảy xuống. Bên trong có hai hàng ghế gỗ sơn màu xanh chạy dọc theo hai bên thành tàu. Khi chuẩn bị lăn bánh hoặc dừng bánh tàu thường kêu leng keng rất vui tai. Tàu điện có chú conductor mặc bộ đồng phục màu ghi xám đi thu tiền và dập vé. Đứa trẻ con nào mà bâu ở bậc cửa lên xuống là chú ấy véo tai cho chết. Có lần tôi cũng bị véo tai đau ơi là đau mà không dám khóc. Ngày ấy bọn trẻ con chúng tôi hay có trò nhảy tàu điện, tức là không đợi tàu dừng đã phi xuống nơi cần xuống. Nhảy tàu cần có kinh nghiệm: chớ bao giờ nhảy ngược hướng tàu chạy mà ngã ngửa, rất nguy hiểm. Kinh nghiệm này tôi học được từ thằng L. nhà bà T. Nó nghịch lắm, chuyên gia nhảy tàu điện và trèo cây hái sấu. Cái H. "nhà quê" một lần bị ngã sứt sát hết chân tay cũng chỉ vì nhảy ngược. Tôi nhớ ngày ấy HN chỉ có mấy tuyến tàu điện là Bờ Hồ - chợ Mơ, Bờ Hồ - Thuỵ Khê, Bờ Hồ - Cầu Giấy, Bờ Hồ- Hà Đông chạy qua Ô chợ dừa- Ngã Tư sở, và Bờ Hồ qua Cửa Nam- Hàng Cỏ- Công viên Thống nhất (*).

Chuyến Bờ Hồ-Thụy Khê chạy qua phố Q.T. Tôi và cái H "nhà quê" hay đón chuyến này đi lên bể bơi thiếu nhi Quận BĐ ở 180 Q.T và Vườn ươm ở Thuỵ Khê. Bể bơi thiếu nhi là nỗi kinh hoàng của tôi. Học đến hai tháng mà tôi vẫn không bơi nổi vì sợ cô giáo. Cô thấy tôi nhát nên toàn dìm đầu tôi xuống nước bắt phải bơi. Nhưng tôi cũng không dám phản ứng vì sợ cô mách bố mẹ. Mà bố mẹ tôi thì kỳ vọng nhiều vào cô con gái đầu lòng lắm, bố mẹ còn dự định cho tôi học đàn và học múa ballet để sau này đi học nghệ thuật bên Liên Xô nữa (và tất nhiên là dự định ấy không thành sau một biến cố lớn xảy đến với gia đình tôi năm tôi lên lớp 7). Cái H "nhà quê" thì chẳng sợ gì cả. Ở "nhà quê" nó toàn lội ao quen rồi. Có lần nó đèo tôi về quê nó ở Nhật Tân, đường làng toàn rơm rạ với phân trâu. Về đến nhà bà nó, thoắt một cái, nó đã lội xuống ao mò cá. H. và tôi có một tình bạn đẹp cho đến tận bây giờ, nhưng đó là chuyện nói sau. Tuyến tàu điện Bờ Hồ-Chợ Mơ thì cứ hai Chủ nhật một lần mẹ đưa hai chị em tôi ra Bờ hồ đón, đến thăm bác. Bác là chị gái của mẹ tôi, sống ở mạn chợ Mơ-Minh Khai. Lúc về ngang qua chợ Cầu Gỗ thế nào mẹ cũng cho chúng tôi ghé vào ăn bánh Tôm. Tôi nhớ bánh tôm ngày ấy ngon lắm cơ, nóng, giòn, bùi, chứ không cứng ngắt và đẫm dầu mỡ như bánh tôm Hồ Tây bây giờ đâu. Thỉnh thoảng từ tàu điện xuống mẹ cũng dắt chúng tôi ra Bốn mùa ăn kem cốc. Đối với bọn trẻ con ngày ấy thì kem cốc là thứ quà sang trọng không gì sánh nổi. Thời bao cấp, nghèo đói, lấy đâu ra nhiều thứ quà bánh như bây giờ. Nhấm nháp vị ngọt mát lạnh tan nhanh trên đầu lưỡi mà sung sướng. Tôi nhớ cả kem Tràng tiền cũng ngon lắm, kem cốm, rồi kem sữa, mùa hè chật ních những người là người chen nhau mua. Nhiều bữa mẹ len được ra ngoài thì hai que kem cho hai chị em tôi đã bắt đầu chảy. Sau này lớn lên, đã đi nhiều nơi, quay về ăn lại kem Tràng tiền không hiểu sao không thấy ngon như ngày xưa nữa. Có phải vì đã nếm qua nhiều của ngon vật lạ nên kem ngon cũng trở nên bình thường hay là bởi khi còn trẻ con thì những cái bình thường nhất cũng cũng đẹp đẽ khác thường như mẹ bảo? Bây giờ mỗi lần ngang qua đó, thấy tụi trẻ con đứng chờ bố mẹ xếp hàng mua kem, tôi lại nhớ về những ngày tháng ấu thơ êm đềm bên mẹ và em trai. Kem Bốn mùa thì dẹp lâu rồi. Bây giờ người ta mở thành quán cafe, bán đủ thứ thâp cẩm. Còn tàu điện thì sau gần hai chục năm vắng bóng, thấy bảo HN lại sắp được chào đón trở lại. Mong ước lắm thay, được một lần nghe lại tiếng tàu leng keng của tuổi thơ!

(*) Hai chuyến Bờ Hồ-Cửa Nam và Bờ Hồ-Hà Đông là do một đồng chí vừa bổ sung hộ.

Hà Nội - những tiếng rao

Ở đây tôi không kể về những tiếng rao của hàng quà rong Hà Nội vì đã có quá nhiều người viết về nó rồi. Những tiếng rao trong ký ức tuổi thơ của tôi giật gân hơn nhiều cơ.

Những ai sống trong khu vực phố cổ vào thập kỷ 80 chắc hẳn không bao giờ quên được tiếng rao rất đặc trưng của công ty ... Vệ sinh vào lúc khoảng 7-8h tối mỗi ngày. Ngày ấy hệ thống nhà vệ sinh trong các phố cổ còn rất lạc hậu. Phần lớn các nhà vệ sinh đều không có bể phốt tự hoại mà chỉ dùng thùng chứa bên dưới và cần phải thay mỗi ngày. Tối tối, công ty vệ sinh lại cho người đến mỗi nhà đổi thùng cũ của một ngày lấy thùng mới. Điều trái khoáy nhất là giờ đổi thùng lại luôn trùng với giờ dùng cơm tối của các gia đình. Thành ra, hễ nghe thấy tiếng rao "Đổi thùng đê" từ ngoài đầu phố vọng vào là các gia đình phải ba chân bốn cẳng thu dọn mâm bát cho nhân viên vệ sinh vào thực hiện nhiệm vụ . Tôi vẫn nhớ khoảnh khắc này là khoảnh khắc kinh khủng nhất trong ngày. Nhiều khi xe tải của công ty vệ sinh đi rồi, cả phố vẫn còn nồng nặc mùi đặc trưng không tan đi được.

Vào những năm 80, Hà Nội còn có phong trào nuôi lợn (cũng giống như phong trào nuôi chim cút, nuôi chó cảnh, hay dùng than tổ ong sau này). Hầu như nhà nào cũng phải có một cái chuồng lợn, dù to dù nhỏ. Những năm ấy đồng lương ít ỏi, giá cả lại leo thang mỗi ngày, con lợn trở thành nguồn thu nhập chính cho cả gia đình. Tôi nhớ một ông GS toán nổi tiếng còn phát biểu - tuy là đùa nhưng không kém phần chua chát - rằng "Không phải là tôi nuôi lợn mà là lợn nuôi tôi" . Hồi ấy nhà ông bà tôi cũng có một cái chuồng lợn. Gọi là chuồng cho oai nhưng thực ra nó chỉ là một mảnh gỗ chặn ngang lối vào nhà vệ sinh, ở trong có nhốt con lợn . Khi phong trào nuôi lợn trở nên rầm rộ thì nghề hoạn lợn là nghê rất có giá. Phố tôi hôm nào cũng thấy xuất hiện một ông hoạn lợn cưỡi chiếc xe đạp Thống nhất lạch xa lạch xạch từ đầu phố đến cuối phố dõng dạc rao "Ai hoạn lợn đê". Phải nói ông này là khắc tinh của lũ lợn. Vừa thấy tiếng ông đầu phố là lũ lợn đã rủ nhau eng éc phán đối ầm ĩ cả phố . Cùng với tiếng rao "Đổi thùng" thì tiếng rao "Ai hoạn lợn" và tiếng lợn kêu eng éc đã trở thành một phần ký ức không thể quên được của tuổi thơ tôi nơi phố cổ Hà Nội.

Trẻ con Hà Nội chơi gì?

Thập kỷ 80, trẻ con Hà Nội chơi gì? Tất nhiên không phải là chơi điện tử hay lên chatroom như trẻ con bây giờ rồi.

Những năm bao cấp, đi khắp Hà Nội cũng chỉ tìm được vài gian hàng bán đồ chơi cho trẻ con, to nhất là cửa hàng Bách Hoá 12 Bờ Hồ, Bách Hoá Tràng Tiền, và Bách Hoá Cửa Nam. Đồ chơi chủ yếu bằng nhựa: những búp bê, súng lục, xe tăng lên dây cót, sang lắm thì rubik, bộ đồ nấu ăn của Sài Gòn. Sờ vào rìa nhựa cứa đứt tay. Làm gì có những Babie với lại người máy như trẻ con bây giờ. Chỉ có đứa nào có bố mẹ đi Liên Xô thì mới được hưởng tý mùi "ngoại quốc" qua những con búp bê biết khóc, biết đi, những con lật đật xanh đỏ, hay là đoàn tàu chạy bằng pin.

Vậy nên Trung thu bao giờ cũng là một ngày hội cực lớn đối với trẻ con chúng tôi thời bấy giờ. Trung thu có chợ Hàng mã, bán toàn đồ chơi đẹp ơi là đẹp, từ mặt nạ, đầu sư tử, đến lồng thiên nga, mũ miện, và các loại đèn: đèn kéo quân, đèn con thỏ, đèn lồng, đèn ông sao ... Tôi có bác ruột (chị gái của bố ở phố Thuốc Bắc nên Trung thu năm nào mẹ cũng đèo hai chị em đến gửi xe ở nhà bác và dắt luôn các anh các chị nhà bác đi chợ Hàng mã cùng. Có năm chị em tôi được mẹ mua cho một cái tàu thuỷ làm bằng sắt Tây, khi đổ dầu vào nó cũng chạy được trên mặt nước, rất oai . Nhưng phần lớn thời gian thì mẹ chỉ đủ tiền để mua đèn ông sao và lồng thiên nga cho chúng tôi thôi. Thậm chí hồi bố còn ở Liên Xô, mẹ một mình nuôi hai chị em, có những năm nghèo quá mẹ còn phải mua giấy màu về tự làm đèn ông sao, đèn con thỏ và cắt mũ miện cho chúng tôi nữa. Mẹ sợ chị em tôi tủi thân với trẻ con hàng xóm. Bây giờ lớn lên, nhớ lại những năm tháng ấy nhiều khi muốn rớt nước mắt vì thương mẹ vất vả.

Trẻ con HN những năm 80 không biết đến những trò chơi quý tộc như trượt patin, đua xe đạp địa hình nên đành xả hơi vào những trò chơi dân dã như thả diều, trèo sấu, bắt ve, ném lon, chơi chuyền, chơi ô ăn quan, chơi rồng rắn lên mây, hay nhảy dây, nhảy ngựa, khênh đám ma. Tôi còn nhớ hàng sấu trên phố PĐP mùa hè năm nào cũng bị tụi trẻ con vặt trụi quả. Có một thằng bằng tuổi tôi đã rơi từ một cây sấu xuống đất chết tươi. Thằng đó tên là T, nhà ở cuối phố QT, học trường VN-CB. Hôm đám ma nó tôi cũng đến xem, bố mẹ nó ngất lên ngất xuống.

Trẻ con Hà Nội ngày ấy đọc và xem gì? Có thể tự hào mà nói rằng thế hệ chúng tôi đọc nhiều và ham đọc hơn trẻ em bây giờ. Có lẽ cũng vì ngày ấy ít đồ chơi quá. Mặc dù sách cho thiếu nhi ngày ấy không được đa dạng và phong phú như bây giờ. Sách trong nước in bằng giấy đen, rất xấu xí, chủ yếu là truyện người tốt việc tốt như tấm gương anh Nguyễn Ngọc Ký, hay em Nguyễn Bá Ngọc, truyện kể về những anh hùng thiếu nhi như Trần Quốc Toản, hay gần hơn nữa là Kim Đồng, Nông Văn Dền, Đội thiếu nhi Bát Sắt, Đội du kích Đình Bảng, vân vân. Truyện Liên Xô thì thường được in bằng giấy trắng, bìa cứng, lại có cả tranh vẽ, đẹp hơn rất nhiều (có lẽ được Liên Xô tài trợ. Những truyện như Ông già Khốt Ta Bít, Mít Đặc và Biết Tuốt, Buratino, Timua và đồng đội, Ngày hội không vâng lời là cả một thế giới mới mở ra đối với thế hệ chúng tôi thời bấy giờ. Chị em tôi bao giờ cũng tự hào là có tủ sách to nhất trong phố, mặc dù gia đình không dư dả. Bố mẹ luôn khuyến khích chúng tôi đọc, và phần thưởng cho chúng tôi bao giờ cũng là những cuốn sách, truyện. Bây giờ đi ngang qua hiệu sách phố Hàng Đậu tôi vẫn còn nhớ bố đã mua cho tôi cuốn Ông già Khốt Ta Bít ở đó nhân ngày kết thúc năm học. Những năm không có tiền mua sách, thậm chí mẹ còn phải cắt truyện trong hoạ báo Liên Xô ra đóng thành truyện cho chúng tôi. Còn bố thì dịch những cuốn truyện cổ tích tiếng Nga mà bố mang về cho chị em tôi đọc. Có lẽ tình yêu tri thức và văn học trong tôi đã bắt nguồn từ những ngày ấy?

Nói về xem thì có lẽ thế hệ chúng tôi cũng vẫn cứ may mắn hơn trẻ con bây giờ. Mặc dù phim ảnh cho trẻ con ngày ấy không nhiều được như trên TV bây giờ. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn có phim riêng chiếu ngoài rạp, như "Tấm da lừa" (không phải truyện của Balzac), "Người đẹp và dã thú", "Vua quạ", vv. Trẻ con không bị đầu độc bởi những "Cô gái chân dài" hay "Giá nhảy" rồi những "Mummy", "Mummy Return". Tôi còn nhớ có lần được bố mẹ dẫn đi xem ballet ở rạp Hồng Hà và Nhà hát lớn, vở "Chú ngựa gù" và "Người đẹp ngủ trong rừng" do các diễn viên ballet của nhà hát Tuổi trẻ diễn. Hình như giờ đây ballet cho trẻ em đã trở thành một hoài niệm? Nếu như vậy thì tiếc thay.


Nguyễn Thủy Minh, Auckland July 2004 -NCTG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.


Thống kê web